Tóm tắt: Dựa vào nguồn vốn và chuyên môn của Hiệp hội Phát triển Quốc tế (IDA), Việt Nam đã đưa vào vận hành 320 MW công suất nhà máy thủy điện nhỏ, cung cấp một lượng điện hàng năm là 1,260 GWh. Việc loại bỏ các rào cản thị trường đã giúp thu hút 2 tỷ đô la Mỹ vốm tư nhân để phát triển thêm công suất 1,500 MW. Tất cả các nhà máy này đều tuân theo các phương pháp quản lý rủi ro môi trường và xã hội tốt nhất toàn cầu, thiết lập những tiêu chuẩn mới cho ngành công nghiệp tại Việt Nam.
Thách thức
Khi dự án này được phê duyệt vào năm 2008, Chính phủ Việt Nam đã lên kế hoạch đa dạng hóa nguồn năng lượng với trọng tâm mới là nguồn năng lượng tái tạo. Điều này nhằm theo kịp với mức tăng trưởng về tiêu thụ điện từ thập kỷ trước – một xu hướng đã được dự báo chính xác là sẽ tiếp tục. Các nhà máy thủy điện nhỏ đã trở thành một lựa chọn khả thi do sự phong phú của các nguồn vốn và quy trình phát triển ngắn gọn, đơn giản hơn. Ngoài ra, không giống như điện gió và mặt trời, thủy điện có thể đóng góp vào nhu cầu công suất lớn.
Những rào cản quy định chính đối với việc phát triển năng lượng tái tạo bao gồm: (i) thiếu cấu trúc hợp đồng mua bán điện cạnh tranh; (ii) một khuôn khổ quy định mập mờ và lòng vòng với quy trình phê duyệt kéo dài và không có cơ chế phân bổ hiệu quả các địa điểm dự án cho những người có khả năng phát triển chúng nhất; (iii) thiếu kinh nghiệm của nhà phát triển trong việc xây dựng và vận hành tài sản tái tạo; và (iv) sự thiếu hứng thú và khả năng hạn chế của ngân hàng trong việc đánh giá và tài trợ các dự án năng lượng tái tạo.
Cách tiếp cận
Thông qua việc chia sẻ kiến thức và xây dựng năng lực cơ quan, Ngân hàng Thế giới đã hỗ trợ Chính phủ Việt Nam trong việc ban hành và tinh chỉnh khung chính sách cần thiết để khởi động thị trường. Hai phần quan trọng nhất là Hợp đồng Mua Bán Điện tiêu chuẩn ‘không thể thương lượng’ và công thức giá tránh chi phí cho các dự án thủy điện nhỏ trên lưới, được giới thiệu vào năm 2009. Giá tránh chi phí được định nghĩa là chi phí mà công ty điện lực sẽ phải trả nếu phải sản xuất điện thông qua phát điện nhiệt.
Dự án cũng đã áp dụng các công cụ sáng tạo như “Khoản vay Trung gian Tài chính” để huy động tài chính tư nhân. Việc Ngân hàng cung cấp 200 triệu đô la Mỹ cho đầu tư giai đoạn đầu để phát triển 19 nhà máy thủy điện nhỏ và tất cả đều tạo ra doanh thu mạnh mẽ đã gửi đi những tín hiệu mạnh mẽ đến thị trường về khả năng kinh doanh thương mại của ngành. Dự án cũng cung cấp tín dụng để thiết lập một cơ sở tái tài trợ giúp tăng cường năng lực của các ngân hàng tư nhân hoạt động hiệu quả với các nhà phát triển.
Việc khai thác tiềm năng thủy điện sẽ yêu cầu đầu tư trong khoảng 1 tỷ đô la Mỹ. Số tiền này sẽ không thể có được nếu không có sự đóng góp từ tài chính tư nhân dưới cả hình thức vốn chủ sở hữu và nợ.
2 tỷ đô la Mỹ |
Một đô la Mỹ đầu tư của IDA vào dự án này đã huy động được 1.13 đô la Mỹ từ khu vực tư nhân. Ước tính rằng trong khoảng thời gian này, tổng số vốn đầu tư tư nhân vào phát triển thủy điện nhỏ đã đạt 2 tỷ đô la Mỹ. |
Kết quả:
Từ năm 2009 đến 2018, Dự án Phát triển Năng lượng Tái tạo Việt Nam đã giúp đặt nền móng cho việc triển khai thành công các nhà máy thủy điện quy mô nhỏ tại Việt Nam.
- Bùng nổ thủy điện: Khoảng 1,850MW công suất mới từ thủy điện quy mô nhỏ đã được xây dựng, trong đó 350MW được phát triển với các khoản tín dụng mà dự án cung cấp, phần còn lại do các nhà phát triển tư nhân thúc đẩy bởi một môi trường mới cho phép mà dự án giúp tạo ra. Tổng cộng, các nhà máy thủy điện này cung cấp 11,200 kWh cho lưới điện quốc gia hàng năm. Năm 2018, thủy điện quy mô nhỏ chiếm 5.9% trong tổng hỗn hợp năng lượng, tăng từ gần như không có vào năm 2008.
- Sự huy động mạnh mẽ của khu vực tư nhân: Một đô la Mỹ đầu tư từ IDA trong dự án này đã thu hút được 1.13 đô la Mỹ từ khu vực tư nhân. Ngoài ra, ước tính rằng trong khoảng thời gian này, đầu tư tư nhân vào phát triển thủy điện quy mô nhỏ đã đạt 2 tỷ đô la Mỹ, chủ yếu được tài trợ bởi các ngân hàng địa phương.
- Cải thiện tính bền vững xã hội và môi trường: 100 phần trăm các nhà máy thủy điện quy mô nhỏ được tài trợ dưới dự án này đã tuân theo các thực hành tốt nhất về môi trường và xã hội quốc tế.
Đóng góp của Nhóm Ngân hàng
Dự án được tài trợ với số tiền 202 triệu đô la Mỹ từ Hiệp hội Phát triển Quốc tế (IDA).
Đối tác
Dự án đã nhận được khoản tài trợ 2.429 triệu đô la Mỹ từ Thư ký Kinh tế Thụy Sĩ (SECO).
Dự án đã được hưởng lợi từ mối quan hệ hợp tác chặt chẽ giữa các đối tác phát triển chủ chốt trong lĩnh vực năng lượng của Việt Nam. Nhóm Đối tác Năng lượng Việt Nam (VEPG) là một nền tảng để phối hợp các chương trình của đối tác phát triển. Ngoài ra, đội ngũ đã làm việc chặt chẽ với các hiệp hội khu vực tư nhân như Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam để thu thập phản hồi từ các bên liên quan trong quá trình thiết kế và thực hiện dự án. Các cuộc họp đánh giá thường xuyên được tổ chức giữa Bộ Công Thương và các nhà tài trợ (WB, SECO) đã giúp phối hợp và củng cố công tác đầu tư và xây dựng năng lực.
Nhà máy thủy điện Bảo Lâm 1 tại tỉnh Cao Bằng được phát triển theo dự án này.
Hình ảnh: Ban Quản lý Dự án.
Tăng trưởng mạnh mẽ
Bằng cách loại bỏ các rào cản thị trường và xây dựng năng lực cần thiết cũng như các khuyến khích cho tất cả các bên tham gia thị trường, Dự án Phát triển Năng lượng Tái tạo Việt Nam đã tạo ra một môi trường thuận lợi để ngành công nghiệp năng lượng tái tạo có thể phát triển mạnh mẽ. Một số luật lệ quan trọng được dự án hỗ trợ bao gồm Luật Tiết kiệm Năng lượng và Chiến lược Phát triển Năng lượng Tái tạo. Kiến thức và kinh nghiệm trong việc phát triển, tài trợ và vận hành các dự án thủy điện nhỏ có thể chuyển giao dễ dàng cho các công nghệ tái tạo khác như gió và mặt trời. Các sáng kiến năng lượng tái tạo – bao gồm cả các dự án thủy điện nhỏ – đã được mở rộng đáng kể.
Ngoài ra, những bài học từ việc phát triển ngành công nghiệp thủy điện nhỏ, như việc huy động tài chính tư nhân và kết hợp năng lượng biến đổi vào hỗn hợp phát điện cũng hỗ trợ việc mở rộng các nguồn năng lượng tái tạo khác như năng lượng mặt trời và gió. Năng lượng tái tạo hiện nay chiếm gần 10 phần trăm tổng công suất phát điện của Việt Nam.
Lợi ích cho các bên.
“Cuộc sống ngày xưa khó khăn vì chúng tôi không có điện. Nhưng mọi thứ đã trở nên tốt đẹp hơn khi điện đến với làng chúng tôi. Họ [dự án] cũng làm một con đường mới cho chúng tôi. Và năm ngoái họ cung cấp cho chúng tôi các giống ngô mới. Thu nhập của chúng tôi đã cải thiện kể từ đó. Bây giờ tôi có thể mua sách giáo khoa cho con tôi.” (Lô Lô May, cư dân, xã Tông Sanh, tỉnh Lào Cai)
“Việc tài trợ cho các dự án năng lượng, đặc biệt là thủy điện, gió và mặt trời, là mới mẻ ở Việt Nam. Trước đây, các nhà phát triển dự án như vậy chủ yếu là các doanh nghiệp nhà nước. Bây giờ, với các chính sách mới của Chính phủ và sự hỗ trợ tài chính từ ngành ngân hàng, các công ty tư nhân có thể tham gia. Chúng tôi đã học hỏi được nhiều thông qua việc tài trợ cho một số nhà máy thủy điện trong dự án này. Ngành năng lượng có tiềm năng lớn để các ngân hàng thương mại tham gia.” (Ngô Thu Hà, Phó Tổng Giám đốc, Ngân hàng Thương mại Cổ phần Hà Nội)
Nguồn: Worldbank.org