Năng lượng xanh?
Năng lượng – cùng với những đổi mới, đầu tư và tăng trưởng mà nó tạo ra trên toàn nền kinh tế. Là cốt lõi của phát triển. Và ở Nam Á, việc khử carbon của ngành năng lượng là chìa khóa cho sự tăng trưởng bền vững của khu vực. Ngành năng lượng là nguồn phát thải khí nhà kính lớn nhất của khu vực. Góp phần vào ô nhiễm không khí, gây gánh nặng bệnh tật cao và có thể cản trở tăng trưởng kinh tế. Đặc biệt với nhu cầu năng lượng ngày càng tăng và phụ thuộc cao vào nhập khẩu nhiên liệu hóa thạch. Nam Á nhập khẩu khoảng hai phần ba nhu cầu năng lượng của mình. Vào thời điểm giá năng lượng toàn cầu đang tăng vọt với cuộc chiến ở Ukraine, việc khử carbon Nam Á thậm chí còn quan trọng hơn.
Năng lượng tái tạo
Là yếu tố chính trong quá trình chuyển đổi sang năng lượng xanh. Năng lượng tái tạo an toàn và giá cả phải chăng. Vì chúng có thể giúp các quốc gia xây dựng khả năng chống chịu với biến động giá cả. Chúng còn giảm chi phí năng lượng và giảm thiểu biến đổi khí hậu.
Mặc dù Nam Á có tiềm năng năng lượng tái tạo rất lớn, Bhutan và Nepal là hai quốc gia duy nhất dựa vào nguồn năng lượng tái tạo làm nguồn năng lượng chính của họ. Mặc dù nước sau vẫn phụ thuộc nhiều vào sản phẩm dầu mỏ nhập khẩu cho ngành vận tải. Các nước khác tiếp tục sử dụng nhiên liệu hóa thạch. Mặc dù thị trường năng lượng mặt trời và gió của Ấn Độ đang phát triển nhanh chóng.
Chuyển đổi tổng thể cơ cấu năng lượng từ nhiên liệu hóa thạch sang năng lượng tái tạo sẽ yêu cầu một khung chính sách và tài chính. Bao gồm việc loại bỏ dần các nhà máy điện chạy bằng than, cải cách trợ cấp năng lượng và thực hiện định giá carbon. Báo cáo kinh tế Nam Á mới nhất (SAEF) của Ngân hàng Thế giới đánh giá những thách thức do quá trình chuyển đổi sang nguồn năng lượng tái tạo của Nam Á đặt ra. Và cũng cân nhắc về cơ hội thị trường lao động do quá trình chuyển đổi này mang lại.
Một Thiên Đường Năng Lượng Xanh
Tiềm năng năng lượng tái tạo của Nam Á rất rộng lớn. Bhutan và Nepal sản xuất một lượng lớn năng lượng thủy điện. Công suất của họ đang tăng lên. Ấn Độ, Maldives và Sri Lanka có thể khai thác gió và mặt trời. Bangladesh và Pakistan cũng có tiềm năng năng lượng mặt trời, tạo ra cơ hội để thay thế công suất than đá hiện có bằng năng lượng tái tạo. Các nguồn năng lượng sạch này mang đến những cơ hội thú vị cho thị trường lao động Nam Á:
Tạo ra việc làm xanh: Các lĩnh vực năng lượng và khai khoáng của Nam Á đã kết hợp nhiều kỹ năng xanh hơn kể từ năm 2015 (Xem hình 2.18 trong SAEF). Kỹ năng xanh trong lĩnh vực năng lượng đã tăng đều đặn từ 0,4% lên 1,2% vào năm 2021. Việc tuyển dụng nhân tài xanh đã tăng 60% so với năm 2016 do nhận thức về môi trường tăng cao sau COVID. Nâng cao chất lượng công việc: Là nước nhập khẩu năng lượng, tỷ lệ người lao động trong ngành năng lượng ở Ấn Độ và Pakistan thấp. Nhưng công việc xanh trong ngành lại có chất lượng cao hơn.
Các cuộc khảo sát lực lượng lao động cho thấy những người lao động có công việc “xanh” trong ngành thường kiếm được nhiều tiền hơn và tham gia vào các nghề có kỹ năng cao. Đây là tin tốt vì mức lương cao hơn thu hút nhiều người lao động hơn và có thể giảm bớt ma sát thị trường lao động trong quá trình chuyển đổi.
Thách thức của chuyển đổi năng lượng
Chuyển đổi từ nhiên liệu hóa thạch sang năng lượng xanh của Nam Á sẽ yêu cầu sự hợp tác giữa khu vực công và tư, cũng như các doanh nghiệp và người lao động cần thích ứng:
Từ bỏ than đá: Ấn Độ là nhà sản xuất và tiêu thụ than đá lớn thứ hai trên toàn cầu. Ngành khai thác than đá Ấn Độ sử dụng khoảng 1 triệu lao động, than đá cung cấp khoảng một nửa nguồn cung năng lượng chính thương mại của Ấn Độ và đóng góp đáng kể cho nền kinh tế trung ương và địa phương.
Tuy nhiên, Đường sắt Ấn Độ – một trong những người tiêu thụ điện lớn nhất của đất nước và là mạng lưới đường sắt lớn thứ tư trên thế giới về quy mô – đã công bố kế hoạch trở thành một nhà phát thải carbon ròng bằng không vào năm 2030. Bản thân Ấn Độ đã cam kết đạt mức phát thải ròng bằng không vào năm 2070. Tuy nhiên, trong quá trình chuyển đổi từ sản xuất than đá, các vấn đề như tài sản bị mắc kẹt và tổn thất doanh thu phải được giải quyết.
Di cư lao động:
Vị trí công việc trong các lĩnh vực năng lượng tái tạo và không tái tạo có thể yêu cầu người lao động di cư để lấp đầy các việc làm xanh, tạo ra những thách thức lớn cho các gia đình. Ví dụ, các công ty năng lượng xanh với các việc làm xanh nằm ở những khu vực có tiềm năng tái tạo. Năng lượng mặt trời mái nhà, dạng năng lượng tái tạo đòi hỏi nhiều lao động nhất, tập trung ở các khu vực đô thị.
Sự chênh lệch việc làm:
Quá trình chuyển đổi xanh sẽ tạo ra người thắng và người thua. Những người lao động tham gia vào các công việc không xanh trong lĩnh vực năng lượng có trình độ học vấn thấp hơn, có nhiều khả năng làm việc trong các ngành nghề tay nghề thấp và kiếm được ít hơn những người có việc làm xanh. Đã bị thiệt thòi, họ thậm chí có thể có nguy cơ mất việc. Quá trình chuyển đổi có thể làm tổn hại đến tăng trưởng kinh tế và sinh kế của người dân ở các khu vực bị chi phối bởi sản xuất nhiên liệu hóa thạch.
>>> PHÁ VỠ RÀO CẢN CHUYỂN ĐỔI NĂNG LƯỢNG SẠCH
Tạo điều kiện cho tham vọng xanh của nó
Tuy nhiên, các nước Nam Á đã thực hiện các cam kết giảm thiểu để chuyển sang nền kinh tế ít carbon và phát triển xanh, bền vững và bao gồm (GRID), và việc kết hợp các chính sách này có thể hỗ trợ quá trình chuyển đổi của họ:
Can thiệp quy định và tài chính:
Các chính sách phù hợp với động lực để tăng sự tham gia của khu vực tư nhân và các cải cách như tái sử dụng trợ cấp hiện tại sẽ làm cho việc mở rộng năng lượng tái tạo quy mô lớn trở nên hấp dẫn về tài chính ở các nước Nam Á. Ví dụ, các đối tác công-tư (PPP) có thể tiếp tục đầu tư vào công nghệ tiết kiệm năng lượng để xây dựng cơ sở hạ tầng cần thiết cho quá trình chuyển đổi, chẳng hạn như một PPP ở Ấn Độ đang cải thiện hiệu suất năng lượng và an toàn kinh doanh và công cộng.
Bồi thường cho người lao động bị ảnh hưởng:
Các nhà hoạch định chính sách nên xem xét tác động phân phối của quá trình chuyển đổi năng lượng bằng cách đảm bảo những người bị ảnh hưởng bất lợi được bồi thường đầy đủ. Cụ thể, các khu vực phụ thuộc vào than đá, các công ty sản xuất năng lượng không tái tạo và người lao động của họ có khả năng bị ảnh hưởng bất lợi bởi quá trình chuyển đổi xanh. Các nguồn lực để giúp các công ty bị ảnh hưởng đa dạng hóa sản xuất, tạo ra việc làm mới và cung cấp đào tạo nghề cần thiết để hỗ trợ người lao động tay nghề thấp sẽ giúp quá trình chuyển đổi dễ dàng hơn.
Thiết lập bảo vệ xã hội đầy đủ:
Các chương trình bảo vệ xã hội nên bảo vệ người lao động và các hộ gia đình bị ảnh hưởng bất lợi bởi quá trình chuyển đổi. Ví dụ, doanh thu từ định giá carbon có thể được sử dụng cho bảo vệ xã hội; bồi thường cho người lao động bị ảnh hưởng; đào tạo những người mất việc hiện tại; và hỗ trợ tìm việc hoặc trợ cấp di dời. Ngay cả với việc chuyển đổi di động, việc di cư có thể gặp khó khăn.
Đào tạo cho tương lai:
Giáo dục và đào tạo nên tập trung vào đáp ứng nhu cầu lao động tương lai. Ví dụ, Nepal đang áp dụng phương pháp GRID. Để xây dựng vốn nhân lực, nâng cao vốn xây dựng và duy trì vốn tự nhiên.
Không thể nghi ngờ gì, đó sẽ là một hành động cân bằng khó khăn để làm xanh nền kinh tế Nam Á trong khi đáp ứng nhu cầu năng lượng tăng cao của khu vực và bảo vệ những người bị ảnh hưởng bất lợi. Tuy nhiên, Nam Á nên nắm bắt thời cơ để tăng cường tài chính và chính sách năng lượng xanh của mình nhằm đẩy nhanh quá trình phục hồi kinh tế sau COVID-19, thu hẹp khoảng cách tiếp cận năng lượng và đảm bảo một quá trình chuyển đổi công bằng cho khu vực.
Tác giả: Margaret Triyana và Yi (Claire) Li